750 USD
Đặc biệt, trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam cùng với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đã triển khai nhiều dự án về bình phục và quản lý rừng.
/. Kết quả: 100 ha rừng thứ sinh suy thoái nghiêm trọng đã được làm giàu bằng việc trồng 6 loài cây lâm sản ngoài gỗ và 5 loài cây gỗ bản địa. Chỉ tính riêng trong phạm vi Chương trình 661/5 triệu ha rừng thời đoạn 1998-2010, đã có 2,45 triệu ha rừng được trồng mới và 0,9 triệu ha được khoanh nuôi tái sinh rừng….
Tác động đáng kể gây BĐKH toàn cầu. Và cũng theo tính nết của các chuyên gia thì trong các loại rừng ở Việt Nam hiện thời, rừng giàu mới chỉ chiếm 5%, rừng nhàng nhàng chiếm 15%, 80% diện tích rừng còn lại cốt yếu là rừng sinh thái hoặc rừng trồng mới, mang lại ít giá trị đa dạng sinh học cũng như dịch vụ HST. Dự án được phát động từ tháng 9/2010 và chấm dứt vào tháng 12/2012, không chỉ tổng hợp và áp dụng các kỹ thuật tốt nhất trong phục hồi, quản lý rừng bền vững mà còn thí nghiệm hồi phục và quản lý rừng cho hai cộng đồng dân tộc thiểu số ở hai huyện của tỉnh Phú Thọ.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng đó mới chỉ là bước trước tiên trong việc hồi phục HST rừng và những khu rừng này chỉ đáp ứng được những chức năng cơ bản của rừng, tạo ra được sản phẩm nâng cao thu nhập cho người dân, chứ chưa phát huy được vai trò nhiều trong điều hòa khí hậu nói chung cũng như giảm thiểu các tác hại của thiên nhiên như lũ lụt, trượt lở, tiếp thụ các khí có khả năng gây ô nhiễm môi trường nói riêng.
Tâm Một số điển hình phục hồi HST rừng điển hình của Việt Nam trong thời kì qua là: hồi phục HST rừng ở Mã Đà (tỉnh Đồng Nai), bình phục HST rừng ngập mặn Cần Giờ, hay hồi phục rừng bảo vệ môi trường trên vùng khắc nghiệt có nguy cơ sa mạc hóa tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận….
862. Với đà phát triển này, Việt Nam đặt đích đến năm 2020 nâng độ che phủ rừng lên 47%. Với những cố đó, đến hết năm 2012, tổng diện tích rừng của Việt Nam đạt 13.
043ha, tỷ lệ che phủ đạt 40,7%. Một trong những dự án tiêu biểu được nhắc tới là “Trình diễn năng lực hồi phục rừng và quản lý rừng bền vững ở Việt Nam” do màng lưới hồi phục và quản lý rừng bền vững châu Á - thái hoà Dương (APFNet) tài trợ 499. T. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp lý quan yếu như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh vật học, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030… để định hướng cho công tác bảo vệ môi trường, bảo tàng đa dạng sinh học.
Rừng ngập mặn Cần Giờ Những năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng diện tích rừng, từ độ che phủ vào khoảng 70% đầu thế kỷ XX xuống còn 43% vào giữa thế kỷ và xuống thấp nhất vào thời đoạn đầu thập niên 90 của thế kỷ trước khi diện tích rừng chỉ còn khoảng 28%.
Một số điển hình phục hồi HST rừng tiêu biểu của Việt Nam trong thời kì qua là: phục hồi HST rừng ở Mã Đà (tỉnh Đồng Nai), hồi phục HST rừng ngập mặn Cần Giờ, hay bình phục rừng bảo vệ môi trường trên vùng hà khắc có nguy cơ sa mạc hóa tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận…. Trước xu thế đó, vấn đề cần thiết đặt ra không chỉ với Việt Nam là phải xúc tiến quá trình hồi phục các HST rừng.
Các cây gỗ và lâm sản ngoài gỗ trong các mô hình đều sinh trưởng tốt và hẹn cung cấp giá trị kinh tế cao; người dân địa phương được giới thiệu và học tập những kỹ thuật săn sóc rừng tốt nhất. Sự suy giảm chóng vánh các diện tích rừng cũng đồng nghĩa với việc giảm những bể chứa cacbon tại các khu rừng nhiệt đới, làm tăng các chất khí nhà kính phê chuẩn quá trình chuyển đổi sử dụng đất.
Để tiếp chuyện thúc đẩy tiến trình phát triển, bảo vệ, dùng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo tàng đa dạng sinh học và ứng phó với BĐKH, ông Võ Thanh Sơn, Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường cho biết, trong thời kì tới, một mặt cần đấu phủ xanh những vùng đất bị suy thoái, mặt khác cần khuyến khích những giải pháp bình phục HST rừng, đặc biệt là trồng rừng với các loài bản địa để tăng giá trị đa dạng sinh vật học, đồng thời đẩy mạnh công tác bảo tồn trong hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét